Viêm phổi hoại tử thường gây ra các triệu chứng ho, sốt, khó thở. Việc điều trị viêm phổi hoại tử thường kéo dài và gặp nhiều khó khăn, đặc biệt việc điều trị ở trẻ thường nặng hơn người lớn. Đây là tình trạng nhiễm trùng nhu mô phổi. Bài viết dưới đây của bệnh viện An Việt sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Khi thời tiết thay đổi thất thường, trẻ em dễ nhiễm các bệnh liên quan đến bệnh phổi nhất, đặc biệt thêm các tác nhân khác khiến trẻ dễ bị mắc bệnh viêm phổi hoại tử. Bệnh là một trong những nguyên nhân gây ra tử vong ở cả người lớn và trẻ nhỏ.
Viêm phổi hoại tử là một thể nặng của bệnh lý phổi, do nhiễm trùng nhu mô phổi, gây ra sốt, ho, và khó thở. Bệnh phát triển với sự hình thành của các hạt nhỏ, áp xe nhỏ dưới 2cm trong nhu mô phổi. Bệnh có diễn biến phức tạp và điều trị kéo dài đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Nguyên nhân chính gây ra viêm phổi hoại tử là do vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng. Tuy nhiên, tùy vào từng độ tuổi mà các tác nhân gây bệnh sẽ thay đổi.
Ngày nay, với sự phát triển của các loại kháng sinh, viêm phổi hoại tử đang có dấu hiệu hiếm gặp, nhưng cha mẹ hãy lưu ý các điều sau đây để sớm phát hiện ra các dấu hiệu của bệnh và đưa bé đến gặp bác sĩ để được điều trị kịp thời.
2. Nguyên nhân và các biến chứng
Viêm phổi hoại tử ở trẻ nếu không được phát hiện và điều trị sẽ để lại các biến chứng nguy hiểm, nhưng trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu về nguyên nhân gây bệnh, để có biện pháp phòng tránh.
2.1 Nguyên nhân
Nhiễm trùng phổi và không nhiễm trùng là nguyên nhân chính gây ra bệnh viêm phổi hoại tử. Cụ thể:
Nguyên nhân nhiễm trùng: Các tác nhân nhiễm trùng gây ra viêm phổi hoại tử là: vi khuẩn, nấm, vi rút.
S. pneumonia, đặc biệt các chủng phế cầu không được bảo vệ bởi vaccine phế cầu hiện hành, đặc biệt là serotype 3 và 19A là nguyên nhân chủ yếu.
S. aureus, đặc biệt là nhóm tụ cầu kháng Methicillin (MRSA) là một trong những nguyên nhân gây viêm phổi hoại tử ở trẻ. S. aureus tạo ra độc tố Panton-Valentin Leucocidin (PVL) có hoạt tính gây độc bạch cầu, có khoảng 2% chủng S.aureus có tiết PVL. Trong trường hợp có tiếp xúc gần gũi, tỷ lệ người mang S.aureus tiết PVL có thể cao hơn.
Viêm phổi hoại tử do tụ cầu có PVL được báo cáo khắp nơi trên thế giới, với tỷ lệ tử vong dao động từ 56-63%, và có thể lên đến 75%. PVL là một độc tố có 2 thành phần LukS-PV và LukF-PV. Cả 2 thành phần này được tiết ra trước khi tập họp lại trong các heptamer tạo nên các lỗ nhỏ trên màng neutrophil, đưa đến hiện tượng ly giải tế bào. PVL gây phân hủy bạch cầu do tạo thành những lỗ nhỏ ở màng tế bào đưa đến giải phóng các hạt nhỏ gây độc tế bào gây viêm và tổn thương phổi. Quá trình chết theo chương trình (apostosis) gia tăng, giãn mạch tại chỗ và hoại tử mô. Hiện tượng này lại còn có thể có thể tự khuếch đại.
Bên cạnh đó, là các nguyên nhân như: điều trị kháng sinh không thích hợp (chậm trễ hay không đúng), do độc lực của vi khuẩn hay do đáp ứng quá mức của bệnh nhân. Nhưng có lẽ do sự phối hợp của nhiều yếu tố cùng lúc.
Nguyễn nhân không nhiễm trùng: bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài như: hít thức ăn, hóa chất (hydrocarbon, dầu, verni, nhựa thông), khói, dị vật; hội chứng hít phân su; hóa trị (Bleomycin, Cyclophosphamide); toxic shock syndrome; phản ứng thải ghép; bệnh Crohn; lupus đỏ hệ thống; bệnh vẩy nến...
2.2 Biến chứng
Viêm phổi hoại tử sẽ không nguy hiểm nếu được phát hiện sớm sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong, ngược lại, bệnh sẽ có những biến chứng rất nguy hiểm như:
Nhiễm khuẩn nặng: sốc nhiễm khuẩn, đông máu nội mạch lan tỏa, suy thận cấp, rối loạn điện giải, ARDS.
Tràn dịch/tràn mủ màng phổi, tràn khí màng phổi, kén khí, dò phế quản-màng phổi, áp xe phổi. Có báo cáo cho thấy viêm phổi hoại tử kèm tràn dịch màng phổi với tỷ lệ rất cao, 80 - 90% với 15- 55% dò phế quản - màng phổi.
Viêm phổi hoại tử sẽ không nguy hiểm nếu được phát hiện sớm sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong
Thông qua các phương pháp chẩn đoán hiện đại như: X quang, siêu âm ngực, CT ngực, bác sĩ sẽ chẩn đoán được liệu bệnh nhân bị viêm phổi hoại tử không? Khi viêm phổi không đáp ứng với điều trị thích hợp nhưng để chẩn đoán xác định cần phải có các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, bác sĩ sẽ chỉ định chẩn đoán viêm phổi hoại tử.
Chụp Xquang ngực là một trong những phương pháp chẩn đoán bệnh viêm phổi hoại tử thường xuyên được áp dụng, nhưng nó có thể bỏ sót bệnh viêm phổi hoại tử. Nguyên nhân là X quang tỷ lệ bóng khí thấy được trên X quang phổi không cao (khoảng 22%). Phương pháp chẩn đoán này cho phép thể thấy sang thương đông đặc phổi kèm bóng khí nhỏ.
Siêu âm ngực là phương pháp không xâm lấn giúp phát hiện sớm viêm phổi hoại tử nhưng vai trò và giá trị của nó trong chẩn đoán viêm phổi hoại tử hiện vẫn chưa được xác định rõ.
Hiện nay, trong phương pháp chẩn đoán có CT ngực là phương pháp hữu ích, nhạy cảm để giúp chẩn đoán xác định viêm phổi hoại tử, đánh giá độ lan rộng của bệnh. Hầu hết các nghiên cứu đều chẩn đoán xác định bằng CT ngực. Ngoài ra, CT ngực còn giúp phát hiện bất thường bẩm sinh kèm theo hay dị vật đường thở bỏ quên nếu có. Phương pháp chẩn đoán này cho phép thể thấy:
• Có vùng đông đặc phổi nhưng không giảm thể tích.
• Phá hủy cấu trúc nhu mô phổi bình thường với sự hiện diện của vùng giảm bắt thuốc cản quang.
• Có nhiều nang chứa khí hay dịch nhỏ (<2cm) (Trong khi áp-xe phổi kích thước ổ hoại tử trên 2cm, vách dày > 2mm).
Trên đây là các thông tin mà bệnh viên An Việt đã cung cấp. Nếu bạn có bất cứ câu hỏi nào hoặc cần tư vấn trợ giúp. Hãy liên hệ trực tiếp với Chuyên gia của chúng tôi theo Hotline 1900 2838. Bệnh viện An Việt luôn sẵn lòng giải đáp giúp bạn.
Đăng nhận xét